Các bác sĩ Khoa Ngoại Bệnh viện Đại học Y Dược – Hoàng Anh Gia Lai với sự hỗ trợ chuyên môn của PGS TS BS Trần Lê Linh Phương (Bệnh viện ĐHYD Thành phố HCM) đã điều trị thành công cho bệnh nhân sa sinh dục với kỹ thuật phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo cố định sàn chậu vào ụ nhô xương cùng. Bệnh không chỉ khiến người bệnh phải chịu tổn thương về sức khỏe mà còn gây ảnh hưởng về mặt tâm lý.
Sa sinh dục là gì ?
Sa sinh dục là một bệnh lành tính thường gặp ở phụ nữ với các triệu chứng như khối sa ở âm đạo gây chèn ép, rối loạn chức năng bài tiết (tiểu tiện, đại tiện). Sa sinh dục ảnh hưởng đến gần một nửa số phụ nữ trên 50 tuổi, với tỷ lệ mắc bệnh từ 30% đến 50%. Trong số các trường hợp mắc bệnh thì sa tử cung là phổ biến nhất (49,9%), sau đó là bàng quang (26,1%), niệu đạo (0,4%).

nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra và gia tăng theo tuổi. Các yếu tố nguy cơ bao gồm mang thai, sinh ngả âm đạo, mãn kinh (tuổi cao, thiếu hụt estrogen), gia tăng áp lực ổ bụng mạn tính (ho nhiều, COPD, táo bón), béo phì, chấn thương vùng chậu, yếu tố di truyền (chủng tộc, rối loạn mô liên kết), cắt tử cung.

Bệnh nhân nữ 80 tuổi, đến khám tại bệnh viện trong tình trạng đi tiểu khó kèm theo khối sa khỏi âm đạo, tiền sử đã cắt tử cung toàn bộ cách đây 10 năm. Tại phòng khám, sau khi thăm khám lâm sàng và kết hợp cận lâm sàng, bác sĩ xác định bệnh nhân bị sa sinh dục độ 3, nội dung sa là thành trước âm đạo và một phần bàng quang. Bệnh nhân được hội chẩn thống nhất phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo cố định sàn chậu vào ụ nhô xương cùng.
Tới nay, sau phẫu thuật 3 ngày, bệnh nhân đã hồi phục nhanh chóng và rất ít đau, đủ điều kiện để xuất viện.
BS CKI Nguyễn Đức Hùng cho biết: Phương pháp phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo cố định sàn chậu vào ụ nhô xương cùng là phương pháp khó và phức tạp, đòi hỏi đội ngũ bác sĩ và kỹ thuật viên trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm.

Phương pháp phẫu thuật này mang lại hiệu quả điều trị tốt, khắc phục được các nhược điểm của mổ mở truyền thống, tỷ lệ tái phát thấp, ít đau, phục hồi nhanh, rút ngắn thời gian nằm viện và giảm chi phí điều trị và trở thành kỹ thuật thường quy triển khai tại bệnh viện từ năm 2021. Giờ đây người bệnh sa sinh dục có thể điều trị ngay tại địa phương rút ngắn thời gian và chi phí cho người dân trên địa bàn và vùng lân cận.